Trang chủ > Ngôn luận và văn chương > Văn chương > Truyện ngắn > Lừa và bò
Lừa và bò
Truyện ngắn của Michel Tournier (Pháp)
Thứ sáu 16/05/2008, của
Bò
Lừa là một nhà thơ, một kẻ văn vẻ, một loài bép xép. Còn bò, nó chẳng nói gì. Đó là một loài nhai lại, một kẻ trầm tư, một con vật kiệm lời. Nó chẳng nói gì, nhưng nó nghĩ không ít. Nó nghĩ suy và nó nhớ lại. Những hình ảnh xa xưa chập chờn trong đầu nó, nhiều và nặng như hòn đá tảng. Hình ảnh đáng tôn kính nhất là về xứ Ai Cập cổ đại. Hình ảnh của bò Apis. Nó do một con bò cái còn trinh thụ thai nhờ sấm sét sinh ra. Nó mang một lưỡi liềm trên trán và một con kền kền trên lưng. Nó giấu một con bọ hung dưới lưỡi. Người ta nuôi nó trong một ngôi đền. Tiếp sau đó, phải chăng một thiên chúa nhỏ đã sinh ra trong chuồng bò, con của một cô gái trẻ và đức Thánh linh, điều đó không có gì là ngạc nhiên đối với loài bò!
Nó nhớ lại. Nó nghĩ đến thời bò mộng trai trẻ. Giữa đám rước lễ mùa gặt tôn vinh nữ thần Cybela [1], nó tiến lên, đầu đội vương miện làm bằng những chùm nho, được các cô gái hái nho trẻ đẹp và các lão thần Silen [2] già bụng phệ diêm dúa hộ tống.
Nó nhớ lại. Việc cày bừa vất vả mùa thu. Chậm chạp kéo lưỡi cày qua lớp đất nứt nẻ. Người anh em kéo cày cùng vác chung một ách. Chuồng bò nóng hầm hập bốc khói.
Nó mơ đến nàng bò cái. Một nàng bò mẹ tuyệt vời. Chiếc bụng mềm mại. Con bê âu yếm rúc đầu vào nơi suối nguồn quảng đại của sự sống. Những chiếc núm vú hồng tươi căng đầy sữa.
Bò biết tất cả những điều đó, cả cái khối lượng đầy tin cậy và vững chắc của nó đương nhiên có bổn phận phải chăm sóc cho đức Đồng trinh và sự ra đời của đức Chúa con.
Chuyện kể của lừa
Bộ lông trắng của tôi có lẽ không làm bạn nhầm lẫn được, lừa nói thế. Ngày xưa tôi đen tuyền, với chỉ một ngôi sao sáng giữa mặt, một ngôi sao, dấu hiệu hiển nhiên cho số mệnh của tôi. Bây giờ, nó vẫn luôn ở đó, ngôi sao ấy, nhưng không còn thấy được nữa vì cả bộ cánh của tôi đã trở nên trắng muốt. Như những tinh tú trên bầu trời đêm nhạt nhoà đi trong ánh sáng bình minh. Tuổi tác đã cho cả người tôi cùng một màu với ngôi sao trên trán như thế, chính vì vậy, tôi muốn thấy được một dấu hiệu, một biểu hiện hiển nhiên của phúc lành mình được ban.
Vì chăng tôi đã già, rất già, dễ chừng đến độ bốn chục xuân, chuyện không tưởng đối với một con lừa. Có khi chính tôi lại là trưởng bối của loài lừa cũng nên? Đó chắc là một dấu hiệu khác rồi.
Người ta gọi tôi là Kadi Chouia. Điều đó cần phải giải thích. Từ thời tôi còn trẻ, các chủ nhân của tôi không tài nào vô cảm được trước vẻ thông thái đã làm cho tôi khác hẳn những con lừa khác. Trong ánh nhìn của tôi có cái gì đó nghiêm túc và tinh tế gây rất nhiều ấn tượng. Đó là nguồn gốc của cái tên Kadi dành cho tôi, và ai cũng biết rằng ở chỗ chúng tôi “kadi” nghĩa là một quan toà cũng đồng thời là một người sùng đạo, tức là một quý ông vượt trội hai lần về sự thông thái. Tuy nhiên, tôi chắc chắn chỉ là một con lừa, loài vật hèn mọn và bị xử tệ nhất trong muôn loài, và người ta không thể đặt cho tôi cái tên Kadi đáng tôn kính ấy mà không làm méo mó đi một chút bằng một cái tên khác, cái tên hết sức nực cười. Đó là Chouia, có nghĩa là nhỏ nhoi, bé mọn, không đáng kể. Cái tên Kadichouia, “nhà thông thái không biết gì”, thỉnh thoảng được các vị chủ nhân gọi thành Kadi, còn thường xuyên là Chouia, tuỳ vào tính khí mỗi lúc…
Tôi là một con lừa nghèo khó. Từ lâu tôi vẫn ra vẻ tự hài lòng với hoàn cảnh. Rằng tôi có một láng giềng tâm giao là một anh bạn lừa giàu có. Chủ tôi là một người làm vườn giản dị. Kề bên ruộng của ông là một cơ ngơi bề thế. Một lái buôn từ Jerusalem cùng gia quyến kéo đến đó nghỉ mát trong những tuần nóng nhất mùa hè. Yaoul, con lừa của họ, là một con vật siêu hạng, to gần gấp đôi người tôi, bộ cánh tuyền một màu xám, rất sáng, mịn như lụa. Tốt hơn hết là nhìn nó khi ra khỏi nhà, ăn vận màu mè xanh xanh đỏ đỏ áo da áo lụa, với chiếc yên dệt gấm thêu hoa, cặp bàn đạp đồng to tướng, tất cả đều treo những búp len toòng teng và lục lạc đung đưa leng keng. Tôi chỉ nhận xét về bộ váy cánh lễ lạc nực cười thôi. Chứ tôi nhớ nhất là những nỗi đau mà người ta bắt nó phải hứng chịu từ nhỏ khi muốn biến nó thành một con vật cưỡi thượng lưu. Tôi từng thấy nó máu chảy ròng ròng, vì người ta dùng dao cạo khắc lên da chữ đầu tên ông chủ của nó và câu châm ngôn ưa thích của lão. Tôi từng thấy đôi tai nó bị may hai đầu lại một cách dã man, để cho chúng dựng đứng lên, như cặp sừng, trong khi đôi tai tôi rũ xuống hai bên đầu một cách thảm thương, và bộ giò nó bị bó chặt bằng những dải băng mỏng nhằm làm cho chúng mảnh khảnh và thẳng hơn những con lừa tầm thường. Con người có thói quen tìm mọi cách làm cho những gì họ yêu thương và tự hào phải đau đớn hơn thay vì là những gì họ ghét bỏ hoặc khinh bỉ.
Nhưng Yaoul cũng được hưởng sự bù đắp xứng đáng, và bên trong lòng trắc ẩn mà tôi nghĩ có thể dành cho nó có chứa đựng một niềm ham muốn bí ẩn. Trước tiên là, hàng ngày nó đều được ăn yến mạch và đại mạch trong một cái máng sạch bong. Và trên hết, là có các nàng ngựa cái. Để hiểu rõ chuyện, trước nhất cần biết đến thái độ khinh mạn đến không chịu nổi của bọn ngựa đực đối với họ nhà lừa. Nói chúng nhìn chúng tôi thấp kém là hãy còn quá ít! Thực tế ra, chúng chẳng thèm nhìn gì đến chúng tôi, chúng tôi có tồn tại thì trong mắt chúng cũng chẳng hơn gì bọn chuột nhắt hay mọt rệp. Về phần các nàng ngựa cái, ô hô thật hay đối với họ nhà lừa, trên cả tuyệt vời, đó là các quý bà cao sang, kiêu kỳ và khó gần. Đúng vậy, ngựa cái là sự tưởng thưởng cao quý và thanh nhã dành cho họ nhà lừa trước bọn ngựa đực khờ khạo, ngốc nghếch. Nhưng làm sao lừa có thể tranh hùng với ngựa ngay trên sân đối phương để mà phỗng tay trên con vật cưng của hắn? Và đó là sự sắp đặt của số phận trong chốn càn khôn xoay vòng, đã dành một sự ưu ái kỳ lạ nhất, khôi hài nhất cho dòng dõi nhà lừa, và tâm điểm của sự ưu ái này mang tên là: con la. Con la là con gì? Đó là một loài vật cưỡi giản dị, chắc chắn và mạnh mẽ (còn rất nhiều những phẩm chất khác có thể kể ra như: trầm mặc, chu đáo, cần mẫn, nhưng tôi biết cần phải thận trọng với cái tính bốc phét lắm lời của mình). La, đó là nhà vô địch của những lối mòn cát nắng, của những sườn dốc hiểm trở, của những đoạn lội vượt sông. Bình thản, điềm tĩnh, bền bĩ, nó dấn bước…
Thế nhưng bí ẩn đằng sau bao nhiêu đức tính đó là gì? Đó là do nó chẳng đếm xỉa gì đến những xáo trộn vì tình cảm yêu đương và những âu lo vì sinh con đẻ cái. Con la không bao giờ có la con. Để tạo ra được con la nhỏ, cần phải có cha lừa và mẹ ngựa. Chính đây là lý do tại sao một số lừa đực được chọn làm “cha của la” (danh hiệu cao quý nhất của cộng đồng nhà lừa chúng tôi) – và Yaoul là một trong số đó – thường có các nàng ngựa làm vợ.
Tôi không quan tâm lắm tới chuyện giới tính, và nếu tôi có tham vọng thì chúng lại nằm ở những khía cạnh khác. Nhưng thú thật, cái cảnh cứ sáng sáng Yaoul trở về sau kỳ tích cưỡi ngựa, mệt lử và khoan khoái vì sung sướng, khiến cho tôi thấy nghi ngờ rằng cuộc đời này còn có công lý. Sự thật thì cuộc đời chẳng phụ tôi gì mấy. Luôn luôn bị đánh đập, mắng chửi, bẹp dí dưới gánh nặng hơn cả thân mình, được nuôi ăn bằng cây cúc gai – quả là ý tưởng hay khi loài người cho rằng lừa thích ăn cúc gai! Nhưng người ta chỉ một lần, một lần duy nhất cho chúng tôi ăn cỏ ba lá và ngũ cốc để biết được thế nào là khác biệt! – và những giây phút cuối cùng dần đến, cùng với nỗi ám ảnh về bầy quạ, khi ngã quỵ vì đuối sức, chúng tôi nằm trên bờ một hào nước khắc khoải chờ cái chết bi thảm đến kết thúc những đau đớn này! Nỗi ám ảnh về bầy quạ, đúng vậy, vì chúng tôi thấy rõ sự khác nhau giữa kền kền và quạ, khi trải qua những giờ phút cuối cùng. Rằng kền kền, các bạn biết đấy, chỉ tấn công xác chết. Chúng chẳng có gì đáng ngại, chừng nào bạn hãy còn hơi thở của sự sống: bằng cảm nhận huyền bí, chúng chờ đợi từ một khoảng cách lễ độ. Trong khi bọn quạ, bầy quỷ sống, chúng hau háu lao vào người hấp hối, giành giật mổ xẻ, bắt đầu từ cặp mắt...
Đây là những chuyện cần phải biết để hiểu được trạng thái tinh thần của tôi, vào những ngày lập đông này, khi cùng chủ đến Bethlem, một ngôi làng lớn vùng Judee. Cả tỉnh đang ở trong tình trạng hết sức lộn xộn vì vừa có một cuộc điều tra dân số do Hoàng đế chỉ thị, và mỗi người cùng với gia quyến phải về nơi quê quán để đăng ký. Bethlem chỉ là một thị tứ nằm trên lưng một ngọn đồi với hai bên sườn tô điểm những khoảng sân và khu vườn nho nhỏ có tường rào bằng đá xếp chồng lên nhau. Thường lệ vào mùa xuân, đó là nơi đáng sống, nhưng ở kỳ lập đông trong cái cảnh điều tra dân số cực kỳ lộn xộn này, tôi cay đắng nuối tiếc cái chuồng ở làng Djela, nơi chúng tôi vừa ra đi. Ông chủ tôi khá mừng rỡ khi tìm được một chỗ nghỉ cùng với bà chủ và hai con trong một quán trọ lớn nhộn nhịp như tổ ong. Bên cạnh toà nhà chính là một nhà kho dành để trữ đồ dự phòng. Giữa hai khối nhà, có một lối hẹp chẳng dẫn đi đến đâu, bao quanh là các giàn kèo, phía trên người ta quẳng những bó song mây tạo thành một cái mái kiểu như mái tranh. Dưới chỗ trú ẩn tạm bợ này, người ta dựng một cái máng ăn và trải thảm cỏ dành cho bọn súc vật của khách trọ. Chính ở chỗ này người ta cột tôi chung với một con bò vừa được tháo ách khỏi chiếc xe kéo. Phải thừa nhận với các bạn rằng tôi luôn ghê tởm bọn nhà bò. Dĩ nhiên là bọn này chả có đầu óc, nhưng số phận xui rủi lại muốn ông anh vợ của chủ tôi có một con, và đến mùa cày bừa, hai ông này tương trợ nhau bằng cách ách bọn tôi lại chung một lưỡi cày, bất kể sự nghiêm cấm chính thức của pháp luật. Mà pháp luật thì hành xử chí lý lắm, bởi vì, xin cứ tin tôi, không gì chán bằng làm việc trong một êkíp như thế. Bò có dáng vẻ của nó – chậm chạp –, nhịp điệu của nó – đều đều. Nó kéo bằng sức đằng cổ. Lừa – giống như ngựa – kéo bằng sức đằng mông. Nó vội vã gắng sức, và làm việc dứt khoát mạnh mẽ. Bắt anh làm việc chung với bò, tức là đã cột vào chân anh một trái đạn đại bác, và là vắt kiệt mọi sức lực của anh, trong khi thứ đó anh chẳng giàu có gì mấy!
Nhưng chuyện buổi tối hôm đó không phải chuyện cày bừa. Khách trọ bị ông chủ quán nén chặt đến độ lấn sang cả nhà kho. Tôi không nghi ngờ gì chuyện người ta sẽ chẳng để cho chúng tôi yên thân được lâu. Quả thật ngay lập tức một ông và một bà dẫn nhau luồn vào cái chuồng tạm bợ của chúng tôi. Người đàn ông khá đứng tuổi, có vẻ là một nghệ nhân. Vừa bước vào, ông ta đã làm ồn ào cả lên, kể rằng nếu như phải tiến hành điều tra dân số ở Bethlem, thì mình thuộc về dòng dõi hậu duệ đời thứ hai mươi bảy của vua David xứ Bethlem này. Người ta cười vào mũi ông ta. Để tìm được chỗ trú ẩn, lẽ ra ông ta nên viện dẫn trạng thái mệt mỏi và đuối sức của người vợ trẻ đang mang thai. Ông ta gom hết rơm trên nền đất và cỏ khô trong các máng cỏ để làm thành một tấm đệm tạm giữa anh chàng bò và tôi để dìu người vợ trẻ nằm xuống.
Dần dần mỗi người đều yên chỗ và tiếng ồn lắng dần. Thỉnh thoảng người vợ trẻ lại rên nhẹ, và chúng tôi biết được người chồng tên là Joseph. Ông hết lời dỗ dành người vợ, và chúng tôi biết nàng tên là Maria. Tôi không biết thời gian trôi qua bao lâu, vì tôi đã thiếp ngủ. Khi tỉnh dậy, tôi nhận ra có một sự thay đổi lớn lao, không chỉ trong cái góc tối tăm chúng tôi đang nằm mà ở khắp nơi, có thể nói cả khắp bầu trời, ngay cả cái mái che đơn sơ trên đầu cũng để lộ ra những khoảng trống lấp lánh. Sự im lặng vĩ đại bao trùm cả trái đất vào cái đêm dài nhất trong năm này, và người ta nói rằng mọi sông suối đều ngưng chảy, còn bầu trời lặng yên tiếng gió để không phá tan cái tĩnh lặng ấy. Trên cây không động một tiếng chim. Không một bước chân cáo trên đồng. Trong đám cỏ chuột thôi kêu lít nhít. Lũ đại bàng và bầy sói, muôn loài có mỏ và có răng nanh, ngừng săn bắt và thức trắng, bụng đói cồn cào còn mắt dán vào bóng đêm. Cả bầy đom đóm và bọn bọ phát sáng cũng tìm cách giấu ngọn đèn đi. Thời gian lắng đọng lại trong cõi trường linh vĩnh cửu.
Rồi đột nhiên, trong một khoảnh khắc, sự kiện diệu kỳ đã xảy ra. Cả đất trời rùng mình lan toả một niềm vui sướng không gì cưỡng lại được. Vô số những đôi cánh thiên thần truyền tin rào rào bay đi khắp hướng. Một chòm sao chổi quét qua sáng loà cả mái tranh nơi chúng tôi trú ẩn. Người ta nghe vọng lại tiếng cười lảnh lót pha lê của những con suối nhỏ và giọng cười trầm ấm của những dòng sông lớn. Trong sa mạc Juda, một gợn cát bay rì rào mơn man những bờ cát vàng. Một tràng hoan hô vang lên từ những cánh rừng thông hoà lẫn với tiếng vỗ tay êm ái của bầy cú. Cả thế gian reo mừng hớn hở.
Chuyện gì đã xảy ra? Gần như chẳng có gì. Trong bóng tối nóng hầm hập với những rơm cùng rạ, người ta nghe một tiếng khóc nhỏ, tiếng khóc dứt khoát không phải của người chồng cũng chẳng phải của người vợ. Đó là tiếng khóc oa oa của một em bé. Cùng lúc đó một luồng ánh sáng chiếu thẳng xuống giữa chuồng, đại thiên sứ Gabriel, thần hộ mạng của Jesus, kể từ đó xuất hiện và bắt tay vào điều khiển gần như mọi việc. Cánh cửa bên ngoài mau chóng mở ra, một trong những cô hầu gái của quán trọ láng giềng bước vào, bưng bên hông một chậu nước ấm. Không chút ngần ngại, cô quỳ xuống và tắm cho đứa trẻ. Sau đó cô xát muối lên người em để da dẻ săn chắc hơn, quấn tã rồi nâng em lên dâng về phía Joseph, ông đỡ lấy và đặt đứa trẻ lên đùi, như biểu hiện của lòng biết ơn nhân từ.
Người ta chỉ có thể nghiêng mình trước sự sắp đặt hiệu quả của Gabriel. Nếu không có sự tôn trọng cần thiết dành cho một vị thiên sứ, Gabriel, rất có thể nói rằng từ một năm nay ông ta đã chạy như cờ lông công. Chính ông đã thông báo cho Maria biết nàng sẽ là mẹ của Thiên Chúa. Chính ông đã xoa dịu mối nghi ngờ của Joseph tốt bụng. Về sau, ông sẽ đánh lạc hướng các vị Vua Mage [3] khi đi trình báo cho Herode [4], và sẽ tổ chức cho gia đình bé nhỏ này trốn sang Ai Cập. Nhưng chúng ta đừng vội. Lúc này đây, ông đang đóng vai trò của một vị tổng quản, một người điều hành việc trang trí cho nơi tối tăm bẩn thỉu này trở nên lộng lẫy tráng lệ, như ánh nắng mặt trời biến nước mưa thành cầu vồng bảy sắc. Ông đích thân đi đánh thức từng người chăn cừu ở vùng lân cận, khởi đầu bằng cách, thú thật là vậy, doạ cho họ một vố đáng sợ. Nhưng rồi ông cười trấn an họ, và thông báo cho họ tin vui trọng đại, và triệu tập họ đến chỗ chuồng bò. Trong một cái chuồng bò? Điều đó thật ngạc nhiên, nhưng cũng đáng an ủi vì sự thật đơn giản!
Khi họ dồn đến ngày một đông, Gabriel gom họ thành nửa vòng tròn, và giúp họ lần lượt tiến lên chúc mừng và quỳ gối đọc lời nguyện ước. Những câu tưởng chừng đơn giản đó cũng không dễ dàng gì đối với những người trầm lặng suốt ngày chỉ quen nói chuyện với bầy chó hay với trăng sao này. Họ đặt trước máng cỏ những thành quả lao động của mình, sữa đông, phó mát dê, bơ sữa cừu, và cả những trái ô liu Galgala, trái bạch phong, trái chà là Jericho, nhưng không có thịt cũng chẳng có cá. Họ nói về thân phận khốn cùng của mình, về bệnh dịch, về ve bét, về bọn chồn hôi hám, và Gabriel nhân danh Đức Chúa con ban phước cho họ, hứa sẽ giúp đỡ và bảo vệ họ.
Không có thịt cũng chẳng có cá, chúng ta đã biết thế. Vậy mà trong những người chăn cừu cuối cùng lại có một anh chàng bước lên với một con cừu đực non bốn tháng vác ngang trên vai. Anh ta quỳ gối, đặt gánh quà xuống thảm rơm rồi vươn người đứng thẳng dậy. Người trong vùng đều biết Silas le Samaritain, hẳn nhiên là một mục đồng, nhưng đồng thời cũng như một ẩn sĩ thông thái nổi danh trong mắt những người khốn cùng. Chàng sống hầu như một mình với đàn chó và bầy gia súc trong một hang động trên núi Hebron. Người ta biết chàng chẳng bao giờ ngẫu nhiên xuống núi, và khi vị thiên sứ ra hiệu cho chàng nói, tất cả đều lắng tai nghe.
– Thưa Thiên Chúa, - chàng lên tiếng, - nhiều người nói rằng con sống ẩn dật trên núi cao là vì căm ghét loài người. Điều đó không đúng. Không phải vì căm ghét loài người, mà vì yêu thương loài vật nên con mới sống cô độc. Người yêu thương loài vật phải che chở cho chúng tránh khỏi sự ác độc và lòng tham lam của con người. Sự thật là, con không phải là một người chăn nuôi bình thường luôn đem gia súc ra chợ bán. Con không bán cũng không giết loài vật con nuôi. Chúng cho con sữa. Con dùng nó để làm kem, làm bơ và phó mát. Con không bán thứ gì. Con dùng những tặng phẩm đó theo đúng nhu cầu bản thân. Con cho phần còn lại – là phần lớn – cho những người nghèo. Nếu như đêm nay con nghe theo lời vị thiên thần đã đánh thức và chỉ ra ngôi sao dẫn đường cho con, đó là vì có một sự phản kháng nhói đau trong tim con, không chỉ đối với những thói quen trong xã hội con đang sống, mà còn nặng nề hơn thế, là đối với các nghi lễ của tôn giáo con đang theo. Vậy đó, sự việc bắt nguồn từ rất xa xưa, có lẽ từ khi trời đất mới hình thành, và cần phải có một cuộc cách mạng tận gốc để thay đổi điều đó. Phải chăng là từ đêm nay? Đó là điều con muốn đến khẩn xin người.
– Chính là từ đêm nay, - Gabriel trấn an chàng trai.
– Đầu tiên hãy nhớ lại câu chuyện tế thần của Abraham. Để thử thách, Thượng đế đã ra lệnh cho ông ta làm lễ tế thần thiêu sinh đứa con trai duy nhất là Isaac. Abraham tuân lệnh. Ông ta dẫn con trai trèo lên một ngọn núi xứ Moria. Đứa con ngạc nhiên: họ mang theo củi xếp dàn hoả, lửa và dao, nhưng con vật tế thần ở đâu không thấy? Củi, lửa, dao… Vậy đó, thưa Thiên Chúa, những thuộc tính tồi tệ của số phận con người!
– Còn có cả những thứ khác, - Gabriel nói, trầm ngâm nghĩ về những cây đinh, những cái búa và những vòng gai.
– Sau đó Abraham xếp dàn hoả, trói Isaac và đặt cậu nằm lên một phiến đá dùng làm bàn thờ. Rồi ông ta kề dao vào chiếc cổ trắng trẻo của con trai.
– Thế rồi, - Gabriel ngắt lời, - một thiên thần đã đến và chặn tay ông ta lại. Đó chính là ta!
– Chính thế, thưa thiên thần tốt bụng, - Silas tiếp lời, - nhưng Isaac từ đó không bao giờ có thể quên được nỗi sợ hãi khi thấy cha đưa lưỡi dao về phía mình. Và ánh thép xanh của lưỡi dao đã làm tổn thương đôi mắt cậu, đến nỗi suốt cuộc đời mắt cậu nhìn rất yếu, và cuối cùng đã mù hoàn toàn, cho nên về sau bị con trai mình là Jacob đánh lừa và qua mặt cả người anh trai là Esau. Nhưng đó không phải chuyện con quan tâm. Tại sao các người có thể bằng lòng với việc giết hại trẻ con không đáng có này? Nhất thiết phải có máu chảy hay sao? Còn ngài Gabriel, ngài đã giao cho Abraham một con cừu đực non để thiêu sống tế thần. Thượng đế có thể chết được vào buổi sáng hôm đó hay sao?
– Ta thừa nhận rằng buổi tế thần của Abraham là một cuộc cách mạng thất bại, - Gabriel nói. - Chúng ta sẽ làm lại.
– Còn nữa, - Silas tiếp tục, - chúng ta có thể ngược về thời xa xưa hơn nữa trong Lịch sử thánh, người ta sẽ ngạc nhiên khi biết được nguồn cơn niềm đam mê của Jehovah [5]. Ngài còn nhớ Cain và Abel. Cả hai anh em cùng hoàn thành sứ mệnh giáo đạo, và mỗi người dâng tế bằng những thành quả lao động của mình. Cain làm nghề trồng trọt nên hiến trái cây và ngũ cốc, trong khi mục sư Abel lại dâng những con cừu kèm với mỡ cừu. Vậy mà Jehovah ngoảnh mặt với Cain và nhận quà hiến tế của Abel. Tại sao? Vì duyên do gì? Tôi thấy chỉ có một lý do: đó là vì Jehovah ghét rau củ và mê ăn thịt! Đúng, Thượng đế mà chúng ta hằng yêu mến là một người chuyên ăn thịt!
Và điều đó thật trùng khớp với những gì chúng ta vẫn tôn vinh. Ngôi đền Jerusalem tráng lệ và uy nghiêm, nơi đỉnh cao của Quyền năng thánh thần chiếu rọi… ngài có biết chăng có những ngày nó đẫm nồng máu tươi như một lò mổ? Bàn thờ đặt đồ lễ tế là một khối đá thô xù, dựng trên một loạt các loại sừng, khoét lõm thành rãnh cho máu súc vật chảy thoát xuống. Có những buổi lễ, các giáo sĩ biến hình thành người lột da thú, và tiêu diệt chúng hàng loạt từng bầy. Bò đực, cừu đực, dê đực, và ngay cả những đàn bồ câu đôi khi cũng hoảng loạn tan tác vì những đợt quằn quại giãy chết đó. Người ta chặt chúng ra từng khúc trên bàn đá hoa cương, nhưng còn bộ lòng thì quẳng vào bếp lò đốt cháy khói bay nồng nặc khắp thành phố. Đã khi nào tôi nói cho ngài biết có những ngày, khi gió bắc thổi, cái mùi hôi thối này bay đến tận ngọn núi của tôi làm cả bầy thú hốt hoảng hay chưa?
– Đêm nay ngươi đã làm đúng khi tới đây nguyện cầu và chiêm ngưỡng đức Chúa con, Silas le Samaritain ạ, - Gabriel nói với chàng trai. - Những lời than trách từ trái tim bè bạn với loài vật của ngươi sẽ được lưu tâm. Ta đã nói với ngươi buổi tế lễ của Abraham là một cuộc cách mạng thất bại. Đức Chúa con một lần nữa sẽ được hiến dâng cho đời bởi chính bàn tay đức Chúa cha. Và ta thề với ngươi rằng lần này sẽ không có một thiên thần nào ngăn được bàn tay ấy. Từ nay trở đi, khắp nơi cho đến tận hòn đảo nhỏ nhất ngoài khơi xa, và mỗi giờ trôi qua cho đến lúc tận cùng thời gian, dòng máu của đức Chúa con sẽ tuôn chảy trên các bàn thờ lễ vì sự cứu rỗi loài người. Cậu bé mà ngươi thấy đang nằm ngủ giữa đệm cỏ, con bò và con lừa có thể hà hơi cho ấm lên, vì thực tế đó là một chú cừu non, từ nay là con cừu tế lễ duy nhất trên thế gian, con Chiên của Thượng đế duy nhất sẽ hy sinh trong hàng muôn thế kỷ.
Ngươi có thể bình tâm ra về, hỡi Silas, ngươi có thể đem con cừu đã đặt nằm đây trở về, như là một biểu tượng của sự sống. Nó may mắn hơn con cừu của Abraham, trong đàn gia súc của ngươi nó sẽ là bằng chứng cho lời cam kết rằng từ nay máu của loài vật không còn chảy trên bàn thờ lễ dành cho Thượng đế.
Sau lời thuyết của vị thiên sứ dường như có một khoảng lắng trầm ngâm làm cho mọi thứ trống rỗng trước sự đảo lộn khủng khiếp và tuyệt vời vừa được thông báo. Mỗi người theo cách của mình và tuỳ theo sức mà tưởng tượng về những thời đại tương lai. Thế rồi rộ lên một tràng cót két tuyệt diệu như tiếng dây ròng rọc gỉ sét, như một tiếng cười khóc nức nở, vụng về và ngô nghê: đó là tôi, là tiếng hí ầm vang của con lừa nơi máng cỏ. Thế là đủ rồi, tôi đã kiên nhẫn hết mức rồi, chuyện này đâu thể kéo dài thêm được nữa. Một lần nữa, quá rõ ràng, người ta đã quên mất chúng tôi, vì tôi đã chăm chú nghe tất tật những gì họ nói với nhau, và chẳng thấy có lời nào dính tới họ nhà lừa.
Tất cả cười vang, Joseph, Maria, Gabriel, những người chăn cừu, và nhà thông thái Silas, và anh chàng bò chẳng hiểu gì, và cả vị Chúa con đang quẫy bốn chân tay nhỏ xíu trong chiếc nôi rơm cỏ.
– Dĩ nhiên là, - Gabriel nói, - họ nhà lừa không bị lãng quên. Chắc chắn những buổi lễ hiến tế không dính líu gì tới chúng. Trong trí nhớ các giáo sĩ, chưa ai từng thấy một con lừa hy sinh trên bàn lễ. Đó quá là ân huệ cho các ngươi rồi, hỡi anh bạn lừa tội nghiệp! Tuy nhiên hãy còn những điều không tương xứng, gánh nặng bẹp dí, bị đánh đập, thương tích đầy mình, bị bỏ đói. Đừng tưởng rằng đời khốn khổ của ngươi lọt khỏi tầm mắt một thiên sứ. Ví dụ là, hỡi Kadi Chouia, ta thấy rõ vết thương sâu và mưng mủ này sau lỗ tai trái của ngươi, và đau đớn cùng với ngươi, kẻ tử đạo khốn khổ, khi mà chủ ngươi cứ mỗi ngày mỗi thọc gậy vào đó hòng mong muốn sự đau đớn sẽ làm sống lại chút sức tàn của ngươi.
Rồi vị thiên sứ đưa một ngón tay sáng rực hướng về lỗ tai trái của tôi, và ngay lập tức vết thương sâu và mưng mủ trước đây chưa bao giờ hết nhanh chóng khép lại, thậm chí còn được che phủ bằng một cục chai cứng và dày để cho không một cây gậy nào có thể làm lở ra được. Đột nhiên, tôi xoã tung bờm sung sướng hí vang một tràng vui thắng lợi.
– Đúng vậy, hỡi những người bạn đồng hành tốt bụng và khiêm tốn trong công việc với loài người, - Gabriel nói tiếp, - các ngươi sẽ có phần thưởng xứng đáng trong lịch sử vĩ đại bắt đầu từ đêm nay, và lịch sử đó sẽ khải hoàn.
Một ngày nọ, ngày chủ nhật – gọi là chủ nhật lễ Cành hay lễ Phục sinh nở hoa, – Thiên chúa sẽ rời khỏi làng Bethania, gần ngọn núi Ôliu, một con lừa cái với chú lừa non đi kèm. Các tông đồ sẽ vắt một chiếc áo choàng lên lưng lừa non – vốn chưa ai từng trèo lên – và Jesus sẽ cưỡi lên lưng nó. Rồi Thiên Chúa sẽ chính thức gia nhập Jerusalem qua lối Cổng vàng, cửa ngõ đẹp nhất thành phố. Một dân tộc ngập tràn hân hoan sẽ hoan hô nhà tiên tri thành Nazareth [6], sẽ cùng hát vang “Hosanna [7] Con trai vua David!” và chú lừa non sẽ đĩnh đạc bước trên tấm thảm lá cọ rải đầy hoa mà người dân hai bên đường trải ra. Lừa mẹ sẽ vừa kiệu chân chạy sau vừa kêu vang “hí hí hí hí”, ý muốn nói với mọi người: “Con trai tôi đó! Con trai tôi đó!” bởi vì một bà mẹ lừa chưa bao giờ được hưởng một niềm tự hào lớn lao đến thế.
Như vậy là lần đầu tiên có người nghĩ đến chúng tôi, họ nhà lừa, có người lo lắng vì nỗi đau hôm nay và niềm vui ngày mai của chúng tôi. Đến cả một đại thiên sứ phải giáng trần thì không phải là chuyện tầm thường. Tôi cảm thấy xúc động trước cảnh quây quần, được tiếp nhận trong đại gia đình Giáng sinh. Tôi không còn là một kẻ cô độc khó hiểu. Chúng tôi sẽ có thể cùng nhau trải qua một đêm thật đẹp trong sự ấm cúng của ngôi làng và sự nghèo khó thánh thiện. Chúng tôi sẽ ăn điểm tâm thật ngon miệng sau một đêm dài ngon giấc.
Ô hô! Người giàu cần phải luôn luôn nhầm lẫn tất cả. Người giàu thực sự không hề biết chán, họ muốn có tất tật, kể cả sự nghèo đói! Ai có thể tưởng tượng được gia đình bé mọn này, đang trú tạm giữa một con bò và một con lừa, lại có thể làm cho một ông vua để mắt tới? Một ông vua, ôi cái miệng tôi! Những ba ông vua, các vị đế vương đích thực ở cõi Đông phương xa xôi, sống trong xa hoa lộng lẫy những hầu trai hầu gái, lừa ngựa đầy đàn, trướng rủ màn che.
Những người chăn cừu đã rút lui từ lâu, sự tĩnh lặng lại bao trùm cả màn đêm có một không hai này. Bỗng nhiên khắp các nẻo đường trong làng vỡ oà huyên náo. Chỉ nghe lách cách tiếng hàm thiếc, tiếng bàn đạp yên ngựa, tiếng vũ khí, màu vải tía, màu vàng thỏi lấp lánh dưới ánh đuốc, tiếng mệnh lệnh, tiếng gọi nhau bằng những ngôn ngữ hoang dại, và nhất là dáng vẻ lạ thường của các loài vật đến từ mọi miền thế giới, chim cắt sông Nil, chó săn thỏ, két xanh, thần mã, lạc đà phương Nam. Và tại sao không có cả voi trong bầy đàn như thế này?
Ban đầu mọi người còn túm tụm lại vì tò mò. Một cuộc xuất chinh như vậy chưa bao giờ thấy ở một ngôi làng Palestine. Có thể nói những người giàu đã ra giá cao để cướp mất lễ Giáng sinh của chúng tôi. Và sau cùng, sự việc đã quá mức, thật quá sức chịu đựng! Người rút lui, kẻ nấp kín, hay nhiều người chạy trốn băng qua đồng rộng đồi cao. Đó là vì, các bạn thấy đấy, những thân phận bé nhỏ như chúng tôi chẳng mong đợi được điều gì tốt đẹp từ những người lớn lao ấy. Tốt hơn hết là đừng làm ngứa mắt họ! Vì một món bố thí vứt lăn lóc đâu đó, bao nhiêu ngọn roi ngựa đã quất xuống đầu một anh bần nông hay một con lừa vô phước đứng bên đường một hoàng tử đi qua?
Chủ nhân tôi đã hiểu được hết những điều đó. Thức giấc vì tiếng ồn, ông vội vàng vơ hết quần áo và mở một lối thoát khỏi cái chuồng tạm bợ của chúng tôi. Chủ tôi có tính quả quyết, nhưng ít khi giải thích điều gì. Không hé môi nửa lời, ông mở dây cột cho tôi và chúng tôi nhanh chóng rời khỏi ngôi làng đang trong tình trạng thực sự hỗn loạn đó, trước khi ba vị vua tới nơi./.
(Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp. Đăng trên: Người Đại biểu Nhân dân, ngày 29/11/2006)
[1] Nữ thần Mẹ, truyền thuyết xứ Tiểu Á (ND).
[2] Các vị thần rừng trong thần thoại Hy Lạp (ND).
[3] Những người đã được các vì sao dẫn đường đến chiêm ngưỡng Jesus khi mới sinh ở Bethlem (ND).
[4] Vua Do Thái Herode Antipas, khoảng 22 tr CN – 39 s. CN (ND).
[5] Jehovah hay Yahve: tên gọi Thượng đế của người Do Thái (ND).
[6] Một thành phố Do Thái, nơi Jesus sống với gia đình trước khi hành đạo. (ND).
[7] Tiếng Do Thái, nghĩa là “Xin hãy cứu vớt chúng tôi” (ND).